Sự thật sau những tác phẩm để đời - Kỳ
5: "Sao anh không về chơi thôn Vỹ?"
TTO - Hàn Mạc Tử (*) qua đời, để lại bài
thơ bất hủ Đây thôn Vỹ Dạ. Rồi suốt hàng thập niên, biết bao phỏng đoán, bình
luận về bài thơ, "nàng thơ", đặc biệt là chuyện tình "nàng
thơ" và chàng thi sĩ tài hoa bạc mệnh... Đâu là sự thật về mối tình này?
Danh thiếp Hàn thi sĩ gửi nàng thơ Kim Cúc - Ảnh tư liệu gia đình
Chẳng phải lời mời
Năm 1932, "nàng thơ" Hoàng Thị
Kim Cúc (1913-1989) lọt vào mắt xanh Hàn thi sĩ tại Quy Nhơn, lúc nàng 19, kém
chàng 1 tuổi. Thi sĩ khấp khởi khi biết "nàng thơ" bà con gần với
người bạn Hoàng Tùng Ngâm, lại ở cùng đường gần nhà.
Hai năm sau, Hàn thi sĩ vào Sài Gòn làm
báo, làm thơ, đến năm 1936 thì về lại Quy Nhơn. Nhưng chỉ ít tháng sau, Kim Cúc
rời Quy Nhơn về Huế.
Năm 1939, đang điều dưỡng bệnh phong tại
Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử nhận bức ảnh "nàng thơ" gửi tặng và làm bài thơ
Đây thôn Vỹ Dạ đề tặng lại. Sau khi thi sĩ tài hoa mà bạc mệnh "xuống
giếng cùng trăng", cả bài thơ lẫn "nàng thơ" được thêu dệt đủ
đường.
Người bạn của Hàn thi sĩ là Quách Tấn dựa
vào câu đầu "Sao anh không về chơi thôn Vỹ?" mà cho rằng: "Khi
Tử đau nằm ở Quy Nhơn, Hoàng Cúc có gửi vào tặng Tử một phiến ảnh "cô gái
Huế" với lời mời ra chơi Vỹ Dạ. Tạ lòng tri kỷ, Tử gửi lại một bài thơ
nhan đề là Đây thôn Vỹ Dạ".
Tương tự, tác giả Nguyễn Bá Tín, viết về
người anh trai Hàn Mạc Tử sáng tác bài thơ sau khi nhận được bức ảnh bà Kim Cúc
mặc áo trắng đứng sau khóm trúc trong khu vườn ở thôn Vỹ... Thậm chí, có tác
giả còn viết "nàng thơ" từng có "những ngày yêu thương vô cùng
cuồng nhiệt" với Hàn Mạc Tử...
Tuy nhiên, theo tư liệu gia đình bà Kim
Cúc, trong thư gửi Quách Tấn đề ngày 15-4-1971, bà nói rõ: "Thưa ông, bức
ảnh đó chỉ là bức ảnh phong cảnh, chụp ảnh hoàng hôn mua ở phố. Trong ảnh không
có cô gái nào khác ngoài cô chèo đò. Cô gái mà ông hỏi đó là do sức tưởng tượng
của thi nhân... Ngoài trừ bức ảnh phong cảnh đó và bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ thì
Tử và tôi không có thư từ gì cho nhau nữa cả".
Những lần gặp gỡ
Năm 1967, Quách Tấn công bố trên tạp chí
Văn là cha bà Kim Cúc không chấp nhận Hàn Mạc Tử vì "không xứng mặt đông
sàng" (môn đăng hộ đối).
Đọc được sau 4 năm, bà Cúc lẽ ra im lặng
nếu câu chuyện không bị đẩy quá xa: một đoàn hát đã đưa lên sân khấu và vai
diễn cha mẹ đằng gái tỏ ra quá đanh đá, chua ngoa khi từ chối Hàn thi sĩ không
môn đăng hộ đối.
Không cầm lòng, bà Kim Cúc biên thư cho
Quách Tấn trách cứ vài điều nhẹ nhàng, trong đó nói rõ Hàn Mạc Tử và cha không
làm việc cùng nhau, họ không gặp gỡ, quen biết nên không có chuyện chê
"không xứng mặt đông sàng".
Tư liệu gia đình cũng cho biết, tại Quy
Nhơn, sau khi gặp "nàng thơ", Hàn thi sĩ có kế hoạch nhờ bạn Hoàng Tùng
Ngâm làm "chim xanh". Nhưng, nhờ đưa thư, bạn không đưa; gửi gắm nỗi
lòng nhờ kể lể, bạn không kể; làm thơ tình tặng "nàng thơ" gửi đăng
báo, bạn cũng cắt bài thơ đi rồi mới chuyển báo...
Thất vọng, thi sĩ tìm cách chuyển hướng,
nhờ ông Trợ Cát, một người cậu bà con của nàng. Trong một lần đến nhà mục đích
mai mối, ông thấy không ổn nên "lúc ra về bỏ quên bức thư của Tử gửi cho
cậu mà nội dung chỉ nói về chuyện tâm tình của Tử". Thi sĩ, sau đó, tìm
cách đón đường...
Trong thư gửi "cậu mợ Tín" ngày
16-10-1987, bà Kim Cúc kể rõ: "Vào đầu năm 1936... Tử có tới gặp tôi hai
lần. Lần đầu chỉ nói bâng quơ vài câu rồi chào về. Lần thứ hai, Tử mạnh dạn
trong dáng điệu rụt rè, lắp bắp mấy lời tỏ tình, rồi đưa tặng tôi tập thơ Bâng
khuâng với mảnh giấy nhỏ có mấy hàng chữ. Tôi bàng hoàng rồi cũng rụt rè từ
chối, không nhận sách, không nhận thơ".
Cũng trong bức thư này, bà cho biết thêm:
"Gần cuối năm 1936, khi Tử về dự Hội chợ Huế, mang theo một xấp tập Gái
quê vừa in xong, có gặp tôi cùng đi với anh em trong hội chợ. Tử đưa tặng anh
em tôi mỗi người một tập, có đề chữ tặng, không tặng tôi mà chỉ yên lặng nhìn!
Mấy hôm sau Ngâm cho biết Tử có về nhà tôi ở Vỹ Dạ mà lại đứng ngoài ngõ nhìn
vô. Rồi từ ngày đó chúng tôi không gặp nhau lại, không thư từ thăm viếng, hứa hẹn,
mỗi người mỗi ngã"...
Nàng thơ Kim Cúc của Hàn Mạc Tử - Ảnh THÁI LỘC chụp lại
Kim Cúc - nàng có yêu không?
Trở lại thôn Vỹ, chúng tôi hỏi đường đến
tư gia "nàng thơ", bà chủ quán nước nhanh nhẩu: "Mấy anh vào hẻm
chùa Phước Huệ, có biển đề Từ đường Hoàng tộc là nhà bà Kim Cúc đó". Bà
còn "tám" về "cái đám to nhứt Huế" của bà Kim Cúc vào tháng
2-1989: đoàn đưa tang dài 4-5 cây số, xe đầu lên đến đàn Nam Giao rồi mà xe
cuối còn tận Vỹ Dạ.
Bà giải thích, đám to vì bà Kim Cúc vừa là
"nàng thơ", vừa là giáo sư nữ công gia chánh Trường nữ Đồng Khánh,
quan trọng hơn là huynh trưởng cấp "Dũng" - cấp cao nhất trong hàng
huynh trưởng thuộc hệ thống gia đình Phật tử Việt Nam.
Ngôi từ đường cuối hẻm 162 Nguyễn Sinh
Cung, kiểu nửa Âu nửa Á giữa khu vườn rộng. Người giữ từ đường Hoàng Phước
Thiện thắp nhang lên bàn thờ tiền nhân và người cô ruột, kể chuyện xưa: họ
Hoàng gốc gác làng Xuân Tùy (huyện Quảng Điền) lên thôn Vỹ mấy đời trước. Ông
nội anh khi được bổ làm thương tá Sở Đạc điền ở Quy Nhơn, để gia đình lại Huế,
chỉ đưa con gái Kim Cúc theo cùng lo cơm nước.
Ngôi từ đường cũng là nơi sống phần lớn
cuộc đời của cô Kim Cúc cho đến khi mất đầu năm 1989. Người cô từng dạy nữ công
gia chánh Trường nữ Đồng Khánh của Huế, không lập gia đình, dành trọn nhiều năm
cuối đời để làm từ thiện và công tác Phật sự. Cô cũng để lại cho đời nhiều di
cảo thơ văn, đặc biệt là tập sách Nấu món ăn Huế nổi tiếng...
Năm 2013, người cháu Hoàng Thị Quỳnh Hoa
sau khi cất công khảo cứu toàn bộ tư liệu liên quan và thư từ của người cô ruột
đã cho ra cuốn sách Lá trúc che ngang - chuyện tình của cô tôi với rất nhiều tư
liệu mới và bất ngờ. Điều thuận tiện ở chỗ số thư từ ghi nháy hai chữ "để
lại", có nghĩa hầu hết thư từ viết xong, trước khi gửi, "nàng
thơ" cẩn trọng chép một bản lưu.
Tác giả Trần Kiêm Đoàn nhận xét cuốn sách
đã "phản bác những suy diễn đầy tưởng tượng và chứng lý mơ hồ của một số
nhà phê bình văn học tên tuổi"... Trong sách, khi đặt vấn đề "Kim Cúc
có yêu Hàn Mạc Tử không?", tác giả đã không kết luận "không" hay
là "có". Vì hoàn cảnh? Tác giả viết: "Trong một xã hội mà một cô
gái con nhà khuê các không thể nghĩ đến hai chữ yêu đương, không thể tiếp chuyện
với người khác phái ở ngoài đường"...
Theo đó, sau khi thi sĩ qua đời, người em
Hoàng Tùng Ngâm kể lại nỗi lòng Hàn thi sĩ cùng những áng thơ tình dành tặng,
"nàng thơ" Kim Cúc "hết sức cảm kích và vô cùng ngậm ngùi",
đã cảm tác: "...Hồn anh lẩn khuất ở đâu xa/Hoa biết cùng ai thổ lộ ra/Giữa
đời phức tạp thương đau lắm/Vẫn sống an nhiên vẫn đậm đà"...
Bài thơ ra đời tháng 8-1939 (?)
"Xót xa quá, tôi không biết làm gì
khác hơn là viết mấy hàng chữ hỏi thăm sức khỏe Tử, viết mà không ký tên, không
đề ngày, sau tấm ảnh phong cảnh Huế. Rồi mấy tháng sau, Ngâm lại gửi về tôi bài
thơ Ở đây thôn Vỹ Giạ (tên ban đầu của bài thơ - PV) với mấy hàng Tử viết sau
lưng bài thơ vào tháng 8-1939. Giữa Hàn Mạc Tử và tôi chỉ có chừng nấy. Có thể
nói đó là một kỷ niệm đầy thơ mộng của mối tình trong trắng, thanh cao và bất
diệt giữa hai tâm hồn khác tôn giáo" - trích thư Hoàng Thị Kim Cúc gửi
Nguyễn Bá Tín.